Sau mùa đông lạnh lẽo, qua tiết tháng 2 tháng 3 nầy khí hậu điều hoà, nên phong cảnh Ðà Lạt là phong cảnh thần tiên.
Trong thành, trăm hoa đua nở, phác họa đủ màu, chẳng khác nào những bức tranh đẹp đẽ do tay thợ vẽ vời mà trình bày khắp nơi. Trước sân trên cửa, dựa lộ, bên hồ, chỗ nào cũng thấy hoa, mà hoa nào cũng yêu kiều diễm lệ.
Trên mấy đồi thì cỏ xanh mướt, che phủ mặt đất, chỗ thấp cũng như chỗ cao. Có khi giữa tấm thảm xanh ấy dựng lên một vài cây thông già, sừng sững giữa trời, nhánh gồ ghề, lá thưa thớt, dường như thiên thần của tạo hoá đặt bày, để dòm ngó nhơn gian, hoặc để thử thách tuế nguyệt.
Trên triền núi, rừng thông chớn chở, che bớt hố thẳm, thêm oai đảnh cao. Nếu hỏi rừng nầy tạo ra từ đâu bao giờ và tạo ra để làm chi, thì khó mà trả lời được.
Còn ở xa xa thì non xanh lố xố chận bớt chơn trời, dãy dọc dãy ngang, đảnh cao đảnh thấp. Ðứng trước quanh cảnh tốt tươi mà trù mà mật[1] nầy, người đa cảm ắt phải ngậm ngùi, người hẹp hòi tự nhiên rộng rãi.
Cách vài mươi năm trước Mộng Liêm tiên sanh trở lại chốn nầy, cụ thấy tay người chen vô mà thay đổi quang cảnh thiên nhiên càng thêm vẽ đẹp, thì cụ cảm hứng nên ngâm:
“Năm mươi năm trở lại non nầy.
Cám cảnh Lâm Viên lắm đổi thay.
Bảy sắc hoa tiên thơm thoát tục.
Tư bề núi Phật mát hằng ngày.
Vui vầy tùng lộc mùi cầu đạo.
Khéo léo lâu đài vẽ biến gì.
Thế giới lưu ly rày đã hiện.
Hỡi ai, ăn trái nhớ trồng cây”
Cảm hứng cũng phải, vì thay đổi thật. Hồi đầu thế kỷ 20 nầy, Ðà Lạt ẩn núp trong vùng hoang vu tịch mịch, núi non tán loạn, rừng rú bịt bùng, thú cầm sanh sống tự do, người mọi lại qua rải rác. Trong một khoảng ba bốn mươi năm, mà Ðà Lạt hoá thành một thị trấn rực rỡ tốt tươi như sơn động bồng lai, như thế giới cực lạc, thế thì làm sao đến đây mà không có cảm hứng.
Hoàng cũng như vợ chồng Nghiệp thuở nay chưa lên Ðà Lạt lần nào, bởi vậy vừa tới đây lộ ra vẽ ngạc nhiên, không dè tạo hoá sắp sẵn mà để dành cho nước Việt Nam một khoảnh thiên đàng yêu kiều đến thế. Hoàng và Nghiệp đã từng dạo xem nhiều danh sơn thắng cảnh bên Châu Âu, nên ngạc nhiên mà không trầm trồ thái quá. Duy có cô Loan, vì thân phận côi cút, không ai dắt di chơi xa, nên thấy cảnh lạ, hoa nhiều thì cô náo nức trong lòng, cô ngồi không an, kêu Sáu Bính biểu chạy chậm chậm cho cô thưởng thức.
Nghiệp nói mình định ở chơi lâu, vậy chẳng thiếu chi ngày giờ cho mình ngoạn cảnh. Ðể kiếm nhà hàng mà an nghỉ cho khoẻ rồi Nghiệp sẽ đem vợ đi xem cùng hết, không bỏ sót một chỗ nào, chơi ở đây rồi còn đi nhiều chỗ khác nữa. Cô Loan nắm tay chồng mà siết chặt, miệng mở một nụ cười chan chứa tình yêu.
Gần 4 giờ chiều hai xe ngừng trước nhà hàng Lâm Viên, là nhà hàng lớn nhứt tại Ðà Lạt. Vì Nghiệp đã có đánh dây thép trước mà mướn sẵn hai phòng, bởi vậy xe vừa ngừng thì hai người bồi chạy ra mà tiếp rước. Nghiệp xưng tên, thì bồi nó đã dọn sẵn hai phòng rồi, phòng hạng nhứt, số 10 và 12 khít nhau từng dưới đất, khỏi lên thang lầu.
Bồi chia nhau xách hành lý, Hoàng với vợ chồng Nghiệp đi vô. Người quản lý đứng tại cửa mà chào rất vui vẻ. Chỉ hai phòng cho khách rồi quản lý dạy bồi hễ đem đồ vô xong thì chỉ nhà xe cho sốp phơ biết chỗ mà cất xe.
Sáu Bính với ba Thiên, sốp phơ xe Hoàng, đi theo bồi và coi cho biết phòng của chủ. Hai người nói:
Cô Loan rước mà đáp:
- Khoan! Chậm chậm một chút. Ðể ba anh kiếm nhà ngủ mướn sẵn một cái phòng đặng tối có chỗ mà ngủ với nhau đã.
Sáu Bình nói:
Nghiệp suy nghĩ rồi nói:
- Thưa, có bất tiện chi đâu. Tụi tôi quen rồi.
- Anh ngủ với tôi. Anh có tính với tôi rồi. Trong ga ra xe nhiều chiếc lộn xộn, không nên bỏ đi ngủ chỗ khác. Tới giờ ăn cơm tụi tôi lấy xe đi chợ mà ăn, rồi về đây ngủ, không nên rời xe.
- Chúng tôi biết nên có đem mền và đồ ấm theo. Ông chủ đừng lo.
- Mới ăn dưới Dijring còn no quá.
- Bà mới lên đây lần đầu nên bà muốn đi coi cho biết.
- Anh đừng có kêu tôi bằng bà nữa nghe hôn anh Sáu. Tôi còn nhỏ như em út. Anh kêu bằng cô thôi.
Sáu Bính dạ rồi qua phòng của Hoàng, có gắn số 12, mà rủ Ba Thiên đi lau xe cho sạch sẽ.
Hoàng với vợ chồng Nghiệp rửa mặt thay đổi áo quần, rồi cùng nhau đi lại phòng ăn mà giải khát. Hoàng với Nghiệp uống la ve còn cô Loan thì uống sữa tươi.
Loan uống riết cho hết ly sữa, rồi cứ cầm bóp dợm đứng dậy mấy lần, tỏ ý muốn đi chơi cho mau. Nghiệp muốn làm vui lòng vợ, nên khuyên Hoàng uống mau mau đặng đi.
Ra xe, Nghiệp kêu hai anh sốp phơ mà nói:
- Ba anh lấy xe ra chợ mà ăn cơm đi. Chúng tôi ở đây chơi một lát rồi về nhà hàng. Còn có một khúc đường, không cần phải đi xe. Mấy anh ăn cơm rồi cứ về ngay nhà hàng mà nghỉ.
Buổi chiều trên bờ hồ nam thanh nữ tú dập dìu, người Pháp xen lộn người Việt, đàn bà nhiều hơn đàn ông, bởi vậy y phục có đủ màu tốp đi xuống tốp đi lên, đi dựa mấy bồn bông, đứng xa xa trông rất đẹp.
Ngó qua phía hồ bên kia thì một vùng cao nguyên rộng minh mông hiện ra trước mắt, trên ấy những đồi nhỏ nằm lúp xúp cho tới chơn núi Lâm Viên đồ sộ đứng phía trong. Người ta đương bắt đầu kiến trúc trường Trung học Yersin bên đó. Sinh viên được chốn thần tiên nầy mà dồi mài tâm chí, mở mang kiến thức thì có gì sung sướng bằng. Ngặt vì ở đây phẩm thực còn thiếu thốn, mà đường giao thông với Sài Gòn chưa thuận tiện, bởi vậy giá sinh hoạt phải mắc mỏ, bề ăn ở phải tốn hao nhiều. Muốn đào tạo nhơn tài mà lập trường lớn nơi nầy, thì cái ý định bất công đó nó thể hiện rõ ràng, vì lẽ con nhà nghèo hèn, dầu thông minh, dầu cần mẫn, cũng không thể mở rộng tri thức như con nhà giàu sang được.
Vợ chồng Nghiệp với Hoàng ở chơi tới tối mới trở về nhà hàng mà ăn cơm. Phòng ăn rộng rãi, nhưng đông khách nên ngồi giáp hết. Bàn nào cũng chuyện trò vui vẻ mà êm ấm, chớ không phải rần rạc và lộn xộn như trong mấy nhà hàng dưới Sài Gòn.
Quang cảnh nầy làm cho Nghiệp với Hoàng nhớ đời sống của mình hồi ở bên Pháp, rồi nhắc mấy chuyện éo le lại cho cô Loan nghe chơi, khiến cho cô hiểu rõ đại chí của anh và chồng, cả hai đều nhờ kiên nhẫn mẫn cán, quản đại, tiến thủ, nên học mới thành công mỹ mãn.
Ăn cơm rồi, Hoàng đi theo Nghiệp vào phòng Nghiệp mà đàm đạo.
Hoàng ngồi hút thuốc phì phà mà suy nghĩ rồi nói:
1) lấy mủ cây thông rồi lập nhà máy nấu dầu térébenthine, dầu nầy là vật cần thiết của ngành công nghệ và ngành y dược;
Nghiệp vội vàng đáp:
- Tôi rất tiếc mà không đi theo được, vì cuối tháng nầy tôi phải có mặt tại Cần Thơ đặng sắp đặt cho tá điền làm tờ tá mướn ruộng. Năm nay công việc đó phải phiền phức, vì mọi người đều phải làm tờ tá mới. Phần đất nào của tôi thì làm tá tên tôi, còn phần nào của Loan thì làm tờ tá tên Loan, Phải làm cho rành rẽ.
- Ê, ê! Tính như vậy sao được. Muốn bắt moa làm anh chủ điền lù mù ở trong làng hay sao? Mùa nầy moa góp lúa, chớ qua mùa tới và luôn luôn mỗi năm, Loan phải coi cho mướn ruộng và thâu góp lúa tất cả. Việc đó phải giao cho đàn bà coi, đặng tụi mình khoẻ trí mà lo việc lớn chớ. Loan phải có một phần việc, đặng Loan lo chút đỉnh, chớ để Loan ăn rồi lại cứ nằm ngửa mà đọc tiểu thuyết hoặc thả riểu trên đường Catinat, hoặc họp bạn để nói hành thiên hạ hoài hay sao.
- Nếu anh bận việc thì em sẽ lãnh làm quản lý ruộng đất cho anh. Anh làm tờ tá cho rành đi, đặng em coi theo đó mà thâu góp. Hồi nhỏ em có giúp bà ngoại mà góp lúa, mấy năm sau đây má cũng phú thác cho em làm, má chỉ coi chừng vậy thôi.
- Ừ, vậy mới phải chớ! Chú Nghiệp nầy cưng vợ quá! Nầy, cưới vợ về, phải kiếm công việc cho nó làm, chớ cưng mà để vợ ở không đi chơi, ấy là xúi cho vợ hư đa, nói cho mà biết.
- Anh nói cái giọng trưởng lão quá! Chưa có vợ mà dám lên mặt làm thầy thiên hạ về đạo làm chồng chớ.
- Thì làm đi. Làm thử coi!
- Ðể tôi xuống Cà Ná tôi coi ruộng muối của người Pháp họ làm có thạnh vượng hay là không rồi tôi sẽ kiếm từ đó ra Phan Rang, Nha Trang, coi có chỗ nào làm ruộng muối được thì mình lập thế xin làm. Như không có, thì mình sẽ kiếm ở Miền Nam Việt, Bà Rịa, Ba Tri, Ba Ðộng, Sóc Trăng, Bạc Liêu, hoặc ở Rạch Giá chắc là làm được. Nước Việt Nam nằm dọc theo mé biển trót hơn 2 ngàn cây số, thiếu gì chỗ mà chọn đất làm ruộng muối được. Thế mà nước không đủ muối cho dân dùng, nghĩ thiệt là kỳ cục. Ấy là tại bày hạn chế sản xuất, để cho hội nầy nhóm nọ họ nắm độc quyền mà bóp họng dân chúng chớ có chi đâu. Cho sản xuất thong thả đi, người ta làm ra muối nhiều, dân được hưởng giá rẻ, chánh phủ được lợi về thuế sản xuất và thuế xuất cảng, ai cũng có lợi hết. Về thuế sản xuất thì định thâu hoặc mỗi mẫu đất hoặc mỗi tấn muối. Thuế xuất cảng thì định thuế mỗi tấn muối chở ra ngoại quốc. Thuở nay Nhựt Bổn cần mua muối của mình lắm. Mà có muối bán cho Cao Mên với Lào gần đây cũng đủ rồi.
- Nhớ chớ. Vấn đề đó là vấn đề thuở nay tôi thích hơn hết. Tôi ưa công nghệ hơn nông nghiệp. Nhưng sanh trưởng trong vùng bình nguyên, từ nhỏ hễ bước chơn ra khỏi nhà thì thấy ruộng, tự nhiên tôi không khinh rẽ ngành nông, mà lại hay quan sát. Tôi nhớ tôi đọc được một tạp chí kinh tế, tôi thấy một người Pháp có bằng địa chất học, viết một bài khảo cứu về địa chất học của vùng cao nguyên Nam Việt. Bài ấy nói rằng trong vùng nầy có một dải đất đỏ quí lắm. Dải đất ấy bề ngang cở chừng vài ba chục cây số ngàn, còn bề dài thì dài lắm. Nó nằm từ vùng Xuyên Mộc, trong tỉnh Bà Rịa, chạy lên tới vùng Kon Tum, đi ngang qua đất đỏ, An Lộc, Xuân Lộc, Bà Rá, Ban Mê Thuộc, Pleiku, Kon Tum. Trong dải đất đỏ chất đất hợp với vườn tược ; trồng cao su, dừa khô, bông vải, cà phê, trà, gai, bất luận cây gì cũng thạnh mậu cả. Vậy nếu muốn lập vườn thì nên lập trong vùng đất đỏ, phần nhiều còn hoang vu, chưa ai khai khẩn. Mà trước khi khai thác, phải lo giải quyết vấn đề giao thông, phải làm sao cho thuận tiện sự qui tụ nhơn công, sự tiếp tế lương thực cho số nhơn công ấy và sự vận tải đồ sản xuất. Theo ý tôi thì Việt Nam cần phải mở đường xe lửa cho nhiều, ngành kinh tế mới dồi dào thịnh vượng được. Trước hết phải lập đường xe lửa trực tiếp Sài Gòn-Ðà Lạt. Ðường nầy không dài lắm, vì đã có sẵn đường Sài Gòn-Xuân Lộc rồi. Phải có đường nầy thì giá rau cải, bông Hoa ở Sài Gòn và giá sanh Hoạt ở Ðà Lạt mới hạ thấp được. Ðồng thời phải lập đường xe lửa Sài Gòn - Kon Tum, chạy ngang qua hoặc Thủ Dầu một, hoặc Biên Hòa rồi thẳng lên Bà Rá, Ban Mê Thuộc, Pleiku, Kon Tum. Chúng ta đã có sẵn đường sắt chạy theo mé biển. Hễ lập thêm đường sắt xuyên vùng cao nguyên rồi thì nối cho hai đường giao tiếp với nhau. Ðà Lạt có đường xuống mé biển rồi, bây giờ phải nối qua Ban Mê Thuột. Cũng nên nối Nha Trang với Ban Mê Thuột và Qui Nhơn với Kon Tum nữa, thì sự vận tải và giao thông mới tiện. Phải làm việc đó trước, thì tự phiên cuộc khai thác cao nguyên tự nhiên chạy theo liền, không cần lo cũng thành tựu.
- Thật quả như vậy, coi bộ Loan buồn ngủ. Thôi để về cho vợ chồng nghỉ vì ngày nay ngồi xe mỏi mệt.
Qua bữa sau, Nghiệp với Hoàng bắt đầu đem cô Loan đi chơi, bữa nào cũng đi, sớm mơi đi xa, buổi chiều đi gần, bữa thì dạo chơi cảnh thanh tịnh hoặc thú u nhàn, bữa thì dọ xem cách làm ăn, bữa thì tìm kiếm mấy nguồn lợi mà người ta chưa để ý.
Ban ngày đi chơi, ban đêm thì hội nhau mà bàn luận, bàn những cuộc đổi thay sắp đến, luận những điều cần thiết phải làm, làm đặng giúp nước thêm phú cường, làm đặng dạy dân mau tiến hoá.
Cô Loan ít học nhưng nghe chồng với anh nói chuyện riết rồi cô cảm nhiễm nên tâm chí lần lần rộng, kiến thức lần lần sáng thêm, cô mới thấy thói thấp hèn của thiên hạ xưa nay, cứ bu nhau mà giành giực cái lợi bất nghĩa, cái lợi cỏn con, không biết hiệp lực đặng xây đắp cái lợi cộng đồng của quốc gia, cái danh hiển hích của chủng tộc.
Chưa quá 10 ngày mà cả vùng Ðà Lạt từ châu thành ra ngoại ô, không còn chỗ nào mà không có dấu chưn của Hoàng và vợ chồng Nghiệp.
Cô Loan đã được thưởng thức cái cảnh im lìm an tịnh ở suối Cam Ly, ở rừng Ái Tình (Bois des Amours ), ở hồ Than Thở (Lac des Soupirs). Cô Loan đã được xem sức nước ở thác Gồ Gà, cách nuôi bò, nuôi dê để lấy sữa ở Ðăng Kia, cách trồng bông hoa, trồng rau cải, trồng đậu, trồng cao su ở Arbre Bryoé, ở Dran, ở Bellevue. Cô đã được lên đồi Point-de-Vue ngồi ngắm lại châu thành Ðà Lạt, mà xem lâu đài đường sá sắp nằm có lớp có từng. Cô còn lên tới triền núi Lâm Viên, đứng xem quang cảnh tổng quát của cả vùng cao nguyên, xa kia núi chập chồng, trước mặt đồi nằm lúp xúp.
Cảnh cô Loan thích hơn hết là cảnh hai bên con đường gọi là Tour de Chasse. Cô đã xin chồng đi vòng theo con đường nầy đến mấy lần, khi đi buổi mơi, khi đi buổi chiều. Lần nào đi được nửa đường cô cũng biểu xe ngừng lại rồi cùng chồng bước xuống đứng nhìn mấy vùng cỏ non, chỗ nắng thì vàng, chỗ mát thì xanh, chẳng khác nào một tấm gấm khổng lồ trải trên các đồi mà khoe dệt khéo. Lại rải rác vài cây thông già sừng sựng trên đồi mà coi chừng mấy bầy nai ăn cỏ, làm cho hiện ra bức tranh tùng lộc thiên nhiên.
Cô Loan khuyên chồng chụp hình cái cảnh thanh cao đẹp đẽ nầy đặng chừng về sài gòn cô mướn rọi ra lớn để treo trên bàn viết mà nhìn cho khoẻ trí.
Chơi đúng 2 tuần lễ rồi Hoàng sửa soạn đặng trở về Cần Thơ tiếp xúc với tá điền cho họ quen biết mà tin cậy nhau, gây tình thân ái giữa nhà nông và chủ ruộng. Vợ chồng Nghiệp cũng sửa soạn xuống Nha Trang ở chơi ít ngày rồi sẽ trở về, đi lần lần từ chặng đặng quan sát miền duyên hải phía Nam Trung Việt.
Một buổi sáng hai xe phân rẽ nhau, mỗi chiếc đi một ngã.
[1] trù mật, phì nhiêu
[2] (madame), vợ tôi, nhà tôi
Nguồn: hobieuchanh.com